Đội bóng hiện tại: Inter Milan
Francesco Acerbi là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý chơi ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Serie A Inter Milan và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý.
Thông tin bài được tham khảo từ trang wikipedia.
1. Tiểu sử cầu thủ Francesco Acerbi
Francesco Acerbi (sinh ngày 10 tháng 2 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý chơi ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Serie A Inter Milan và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý.
Cầu thủ Francesco Acerbi |
Cho đến năm 22 tuổi, Acerbi chỉ chơi ở các giải đấu hạng dưới của bóng đá Ý, trước khi được câu lạc bộ Serie B Reggina mua lại , nơi anh khẳng định mình là hậu vệ xuất phát. Năm 2011, Acerbi ký hợp đồng với Chievo , qua đó ra mắt Serie A. Mặc dù chỉ được sử dụng không thường xuyên, Acerbi đã thu hút được sự chú ý của AC Milan , đội đã ký hợp đồng với anh vào mùa hè năm sau. Sau khi chỉ xuất hiện trong mười trận đấu cho Rossoneri , Acerbi đã được cho Chievo mượn lại để hoàn thành mùa giải. Năm 2013, anh ký hợp đồng với Sassuolo , câu lạc bộ thăng hạng Serie A lần đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ. Trong mùa giải đầu tiên của mình cho câu lạc bộ, anh được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tinh hoàn và đã chữa khỏi thành công vào cuối chiến dịch, mở đường cho anh trở lại sân cỏ vào tháng 9 năm 2014.
Năm 2018, sau khi ra sân 173 lần trên mọi đấu trường cho Neroverdi , Acerbi chuyển đến Lazio , nơi anh tiếp tục là hậu vệ xuất phát. Anh được cho Inter Milan mượn trong chiến dịch 2022–23, giúp họ lọt vào trận chung kết Champions League . Vào cuối mùa giải, Inter đã thực hiện điều khoản mua đứt và ký hợp đồng vĩnh viễn với Acerbi.
Là cầu thủ quốc tế người Ý từ năm 2014, Acerbi đã chơi cho đội tuyển quốc gia ba lần trong các trận giao hữu trước khi ra mắt chính thức vào năm 2019, sau đó tham gia chiến dịch UEFA Euro 2020 đầy chiến thắng của quốc gia mình .
2. Sự nghiệp của Francesco Acerbi
2.1 Sự nghiệp câu lạc bộ
Pavia
Sinh ra tại Vizzolo Predabissi , Lombardy, Acerbi bắt đầu sự nghiệp của mình tại đội Lombard Pavia , ra mắt giải đấu vào ngày 23/4/2006. Sau đó, anh được cho mượn đến đội Serie D Renate vào ngày 11/1/2007 và chơi một trận giao hữu câu lạc bộ vào cùng ngày. Anh ra mắt chính thức vào ngày 28/1 trong trận hòa 0–0 với Palazzolo . Anh trở lại Pavia vào ngày 30/1 và chơi ở vòng cuối cùng của Serie C2 2006–07 .
Vào ngày 2/8, Acerbi được cho Triestina mượn rồi đến Spezia vào ngày 16/8, mặc dù anh chỉ chơi cho đội primavera dưới 20 tuổi của đội sau . Anh trở lại Pavia vào ngày 1/7 và trở thành cầu thủ thường xuyên của đội một. Anh đã chơi cả hai lượt trận play-off thăng hạng Lega Pro Seconda Divisione 2009–10 và kết thúc với tư cách là đội bán kết thua cuộc. Đội đã được thăng hạng sau khi một số đội bị loại khỏi giải đấu do vấn đề tài chính.
Reggina
Acerbi được triệu tập vào trại huấn luyện trước mùa giải của đội Serie B Reggina vào ngày 13/7 và thỏa thuận đồng sở hữu hoàn tất vào ngày 16/7. Vào ngày 31/1/2011, Pavia đã bán 50 phần trăm quyền đăng ký còn lại cho Reggina với mức phí không được tiết lộ, sau đó đội bóng vùng Calabria đã ký một thỏa thuận đồng sở hữu khác với đội Serie A Genoa với giá 1 triệu euro. Acerbi chỉ vắng mặt hai trận đấu trong mùa giải Serie B 2010–11 và chơi cả hai lượt trận play-off thăng hạng, để thua đội vô địch play-off Novara ở bán kết. Anh ấy đã chơi một lần trong Coppa Italia 2010–11 , một trận đấu mà cuối cùng anh ấy đã bị đuổi khỏi sân. Anh ấy đã bị đình chỉ trong trận đấu cúp tiếp theo và không được đưa vào vòng thứ ba.
Chievo
Vào ngày 24/6/2011, Genoa đã mua 50 phần trăm quyền đăng ký còn lại của Acerbi từ Reggina với giá 2,2 triệu euro và chuyển Antonino Ragusa theo hướng ngược lại. Vào ngày 1/7/2011, Acerbi đã được bán cho Chievo trong một thỏa thuận đồng sở hữu với giá 2 triệu euro như một phần của thỏa thuận chứng kiến Kévin Constant được chuyển đến Genoa với giá 7,8 triệu euro, với Ivan Fatić cũng trở lại Chievo với giá 200.000 euro vào tháng 6 năm 2011. Acerbi đã vào đội hình xuất phát XI trong nửa sau của mùa giải, ra sân 14 lần, hợp tác với Marco Andreolli trong chín trận, Dario Dainelli ba trận và Boštjan Cesar hai trận.
Milan
Vào ngày 20/6/2012, Milan đã mua 50 phần trăm cổ phần của Chievo tại Acerbi, với Genoa giữ lại một nửa quyền đăng ký còn lại của mình. Đồng thời, Milan đã ký hợp đồng cho mượn tạm thời với Kévin Constant từ Genoa. Vào tháng 7 năm 2012, Isaac Cofie gia nhập Chievo từ Genoa như một phần của khoản bồi thường tài chính. Genoa tiết lộ trong báo cáo tài chính của năm dương lịch 2012 rằng Genoa đã mua lại 50 phần trăm quyền đăng ký đối với Acerbi với giá 3,75 triệu euro và sau đó bán chúng cho Milan với giá 4 triệu euro, trong khi Cofie khiến Chievo mất 1,5 triệu euro. Các thỏa thuận này thực sự đã mang lại cho Genoa khoản lợi nhuận 250.000 euro, trong khi Chievo nhận được khoản bồi thường mới cho mức giá của Constant.
Acerbi ra mắt cho Milan trong chiến thắng 3–1 trước Bologna , mặc dù anh không giành được vị trí ổn định trong đội hình xuất phát và rời câu lạc bộ trong kỳ chuyển nhượng mùa đông.
Năm 2019, Acerbi tiết lộ rằng trong thời gian ở Milan, anh bị trầm cảm , đau buồn vì cái chết của cha mình và thường dựa vào rượu để xoa dịu nỗi đau cảm xúc .
Genoa và Chievo
Vào ngày 26/1/2013, Milan đã mua 50 phần trăm quyền sở hữu của Kévin Constant với giá 4 triệu euro. Acerbi, như một phần của thỏa thuận, chuyển đến Genoa cũng với giá 4 triệu euro, từ nơi câu lạc bộ trước đây của anh là Chievo đã cho anh mượn lại với mức phí 300.000 euro. Anh đã có bảy lần ra sân trong nửa sau của Serie A 2012–13 .
Sassuolo
Vào ngày 9/7/2013, Sassuolo , đội bóng mới thăng hạng lên Serie A, đã mua một nửa quyền thi đấu của Acerbi với mức phí 1,8 triệu euro. phần còn lại vẫn là tài sản của Genoa. Trong quá trình kiểm tra y tế trước mùa giải, các xét nghiệm máu bất thường đã phát hiện ra một khối u tinh hoàn , phải phẫu thuật để cắt bỏ khối u. Ngay sau khi cắt bỏ khối u, anh đã tiếp tục tập luyện với các đồng đội mới của mình. Acerbi đã tham gia 13 trận đấu của mùa giải Serie A 2013–14 trước khi anh không vượt qua được cuộc kiểm tra doping vào tháng 12 năm 2013; anh phủ nhận việc sử dụng bất kỳ loại thuốc tăng cường hiệu suất bị cấm nào và rằng đó là do nồng độ hormone không đều do bệnh ung thư tái phát. Sau đó, anh đã trải qua quá trình hóa trị từ ngày 7/1 đến ngày 14/3/2014. Người ta cũng đưa tin rằng Acerbi không bỏ lỡ phần lớn các buổi tập trong thời gian điều trị ung thư của mình. Mặc dù vậy, sự trở lại sân cỏ của anh đã bị hoãn lại cho đến mùa giải tiếp theo.
Vào tháng 6 năm 2014, thỏa thuận đồng sở hữu đã được Sassuolo gia hạn.
Vào ngày 30/1/2015, Sassuolo đã mua đứt Acerbi với mức phí bổ sung là 1,8 triệu euro. Cùng ngày, Genoa đã mua Lorenzo Ariaudo và Leonardo Pavoletti từ Sassuolo theo các hợp đồng tạm thời miễn phí.
Lazio
Vào ngày 11/7/2018, Acerbi gia nhập Lazio theo hợp đồng có thời hạn 5 năm. Anh ấy đã sẵn sàng bắt kịp kỷ lục 162 lần ra sân liên tiếp tại Serie A của một cầu thủ ngoài sân, do Javier Zanetti nắm giữ . Tuy nhiên, kỷ lục cá nhân của Acerbi đã dừng lại ở 149 trận do án treo giò hai thẻ vàng vào ngày 20/1/2019. Kỷ lục cá nhân của anh ấy bắt đầu vào ngày 18/10/2015, khi anh ấy vẫn là cầu thủ của Sassuolo.
Inter Milan
Vào ngày 1/9/2022, Acerbi chuyển đến Inter Milan theo dạng cho mượn . Tại Inter, anh thay thế Andrea Ranocchia sắp ra đi và đoàn tụ với huấn luyện viên cũ của Lazio Simone Inzaghi . Ban đầu được coi là một cầu thủ dự bị, Acerbi một lần nữa trở thành cầu thủ bắt đầu thường xuyên khi mùa giải diễn ra.
Acerbi là cầu thủ bắt chính trong trận chung kết UEFA Champions League 2023 , nơi anh được khen ngợi vì đã ngăn cản Erling Haaland của Manchester City ghi bàn, mặc dù cuối cùng Inter đã thua 1–0.
Vào ngày 7/7/2023, Inter đã thực hiện điều khoản mua đứt của mình và ký hợp đồng vĩnh viễn với Acerbi. Vào ngày 22/4/2024, anh ghi bàn bằng đầu trong chiến thắng 2–1 trước câu lạc bộ cũ AC Milan, đảm bảo danh hiệu Serie A đầu tiên của mình với Inter trong mùa giải 2023–24 khi còn năm trận đấu nữa.
2.2 Sự nghiệp thi đấu ĐTQG
Acerbi đã từng khoác áo đội tuyển đại diện U20 Lega Pro của Ý một lần tại trận đấu đầu tiên của Cúp Mirop 2008–09, để thua Hungary .
Vào ngày 10/8/2012, Acerbi nhận được lệnh triệu tập đầu tiên của đội tuyển quốc gia từ Cesare Prandelli . Anh ấy đã có trận ra mắt đội tuyển quốc gia Ý dưới thời Antonio Conte , vào ngày 18/11/2014, trong trận giao hữu thắng Albania 1–0 tại Genoa , chơi trọn vẹn 90 phút.
Anh ấy đã chơi trận đấu chính thức đầu tiên cho đội tuyển Ý dưới thời Roberto Mancini , vào ngày 8/9/2019, trong chiến thắng 2–1 trên sân khách trước Phần Lan ở vòng loại Euro 2020. Bàn thắng đầu tiên của anh ấy cho đội tuyển Ý diễn ra vào ngày 15/11, trong chiến thắng 3–0 trên sân khách trước Bosnia và Herzegovina , ở vòng loại Euro 2020.
Vào tháng 6 năm 2021, anh được đưa vào đội hình của Ý tham dự UEFA Euro 2020. Trong trận đấu vòng bảng thứ hai của Ý với Thụy Sĩ tại Rome vào ngày 16/6, Acerbi đã có lần đầu tiên ra sân trong giải đấu, vào sân thay cho Giorgio Chiellini bị thương trong hiệp một của chiến thắng chung cuộc 3–0, giúp đội của anh tiến vào vòng loại trực tiếp. Vào ngày 26/6, anh bắt đầu và kiến tạo cho bàn thắng quyết định, do Matteo Pessina ghi , trong hiệp phụ của chiến thắng 2–1 trước Áo ở vòng 16 đội. Vào ngày 11/7, Acerbi đã giành chức vô địch Giải vô địch châu Âu cùng Ý sau chiến thắng 3–2 trong loạt sút luân lưu trước Anh tại Sân vận động Wembley trong trận chung kết , sau khi hòa 1–1 trong hiệp phụ .
Vào ngày 23/5/2024, anh được nêu tên trong đội hình sơ bộ gồm 30 người cho UEFA Euro 2024. Tuy nhiên, anh đã bị chấn thương háng khiến anh phải bỏ lỡ giải đấu .
2.3 Bàn thắng ghi cho ĐTQG
STT | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 15 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Bilino Polje, Zenica, Bosna và Hercegovina | Bosna và Hercegovina | 1-0 | 3-0 | Vòng loại Euro 2020 |
3. Phong cách thi đấu
Là một hậu vệ thuận chân trái có sức mạnh và sức mạnh thể chất, với kỹ thuật tốt và khả năng chơi bóng trên mặt đất, Acerbi được coi là một trong những hậu vệ xuất sắc nhất Serie A và Ý đang lưu hành. Anh thường chơi ở vị trí trung vệ lệch trái trong hàng hậu vệ ba hoặc bốn người, và được biết đến với sự ổn định trong phòng ngự, tính cách lôi cuốn và khả năng lãnh đạo với tư cách là một cầu thủ bóng đá, cũng như khả năng đưa bóng ra khỏi hàng thủ. Là một trung vệ cao lớn và mạnh mẽ về mặt thể chất, mặc dù anh ấy không có tốc độ đáng kể, nhưng sức mạnh, khả năng đọc trận đấu và thời gian cho phép anh ấy vượt trội trong các cuộc đấu tay đôi về thể chất với đối thủ, trong khi chiều cao và khả năng đánh đầu cũng giúp anh ấy hiệu quả trong việc giành chiến thắng trong các pha tranh chấp trên không, và cũng cho phép anh ấy đóng góp tấn công cho đội của mình bằng các bàn thắng bổ sung.
4. Thống kê sự nghiệp thi đấu
4.1. Thống kê sự nghiệp CLB
– Tính đến trận đấu diễn ra ngày 21 tháng 10 năm 2024
CLB | Mùa giải | League | National cup | Europe | Khác | Tổng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Division | Trận | Bàn Thắng | Trận | Bàn Thắng | Trận | Bàn Thắng | Trận | Bàn Thắng | Trận | Bàn Thắng | ||
Pavia | 2005–06 | Serie C1 | 1 | 0 | 2 | 0 | — | — | 3 | 0 | ||
2006–07 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | — | 1 | 0 | ||||
2008–09 | Lega Pro Seconda Divisione | 22 | 2 | 3 | 0 | — | — | 25 | 2 | |||
2009–10 | 24 | 1 | 1 | 0 | — | 2 | 0 | 27 | 1 | |||
Tổng | 48 | 3 | 6 | 0 | — | 2 | 0 | 56 | 3 | |||
Renate (loan) | 2006–07 | Serie D | 1 | 0 | 0 | 0 | — | — | 1 | 0 | ||
Reggina | 2010–11 | Serie B | 40 | 2 | 1 | 0 | — | 2 | 0 | 43 | 2 | |
Chievo | 2011–12 | Serie A | 17 | 1 | 3 | 0 | — | — | 20 | 1 | ||
Milan | 2012–13 | Serie A | 6 | 0 | 2 | 0 | 2 | 0 | — | 10 | 0 | |
Chievo (loan) | 2012–13 | Serie A | 7 | 0 | 0 | 0 | — | — | 7 | 0 | ||
Sassuolo | 2013–14 | Serie A | 13 | 0 | 0 | 0 | — | — | 13 | 0 | ||
2014–15 | 32 | 3 | 0 | 0 | — | — | 32 | 3 | ||||
2015–16 | 36 | 4 | 2 | 0 | — | — | 38 | 4 | ||||
2016–17 | 38 | 4 | 1 | 0 | 10 | 0 | — | 49 | 4 | |||
2017–18 | 38 | 0 | 3 | 0 | — | — | 41 | 0 | ||||
Tổng | 157 | 11 | 6 | 0 | 10 | 0 | — | 173 | 11 | |||
Lazio | 2018–19 | Serie A | 37 | 3 | 5 | 0 | 8 | 0 | — | 50 | 3 | |
2019–20 | 36 | 2 | 2 | 0 | 6 | 0 | 1 | 0 | 45 | 2 | ||
2020–21 | 32 | 0 | 2 | 1 | 8 | 0 | — | 42 | 1 | |||
2021–22 | 30 | 4 | 0 | 0 | 6 | 0 | — | 36 | 4 | |||
Tổng | 135 | 9 | 9 | 1 | 28 | 0 | 1 | 0 | 173 | 10 | ||
Inter Milan (loan) | 2022–23 | Serie A | 31 | 0 | 5 | 1 | 12 | 0 | 1 | 0 | 49 | 1 |
Inter Milan | 2023–24 | 29 | 3 | 1 | 0 | 6 | 0 | 2 | 0 | 38 | 3 | |
2024–25 | 8 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 10 | 0 | ||
Tổng | 68 | 3 | 6 | 1 | 20 | 0 | 3 | 0 | 97 | 4 | ||
Tổng sự nghiệp | 479 | 29 | 33 | 2 | 60 | 0 | 8 | 0 | 580 | 31 |
4.2 Thống kê sự nghiệp ĐTQG
– Tính đến trận gần nhất ngày 20 tháng 11 năm 2023
Đội tuyển: Ý
Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|
2014 | 1 | 0 |
2015 | 0 | 0 |
2016 | 1 | 0 |
2017 | 0 | 0 |
2018 | 1 | 0 |
2019 | 3 | 1 |
2020 | 5 | 0 |
2021 | 11 | 0 |
2022 | 6 | 0 |
2023 | 6 | 0 |
Tổng cộng | 34 | 1 |
5. Danh hiệu của Francesco Acerbi
5.1. Danh hiệu CLB
Lazio
- Coppa Italia: 2018–19
- Supercoppa Italiana: 2019
Inter Milan
- Serie A: 2023–24
- Coppa Italia: 2022–23
- Supercoppa Italiana: 2022, 2023
- UEFA Champions League runner-up: 2022–23
5.2. Danh hiệu quốc tế
ĐTQG Ý:
- UEFA European Championship: 2020
- UEFA Nations League third place: 2020–21, 2022–23
5.3. Danh hiệu cá nhân
Pallone d’Argento: 2014–15
5.4. Khác
Hạng 5 / Hiệp sĩ: Cavaliere Ordine al Merito della Repubblica Italiana : 2021